Chào mừng các bạn ghé thăm trang thông tin học tập, chia sẻ của tập thể lớp 08DNH1 Trường ĐH Tài chính - Marketing ... Mong các bạn góp ý để trang thông tin ngày càng phát triển ... Chúc các bạn vui vẻ!...
"TẬP THỂ 08DNH1 LUÔN BÊN BẠN !"

Thông tin kinh tế - Tài chính

BẮT ĐẦU GIẢM LÃI SUẤT VND
Từ hôm nay (1-10), thông tư 13 chính thức có hiệu lực, một số ngân hàng đã công bố điều chỉnh lãi suất tiết kiệm VND, USD và vàng. Trong đó đã có ngân hàng đầu tiên công bố giảm lãi suất tiết kiệm tiền đồng, nhưng cũng có một số ngân hàng vẫn tiếp tục tăng lãi suất huy động USD và vàng.

Nhiều doanh nghiệp đang kỳ vọng lãi suất sẽ tiếp tục giảm trong thời gian tới. Trong ảnh: tìm hiểu thủ tục vay vốn ở Ngân hàng TMCP Việt Á - Ảnh: THANH ĐẠM

 Cụ thể, từ ngày 1-10, Ngân hàng TMCP Đại Á giảm lãi suất huy động mới đối với sản phẩm tiền gửi tiết kiệm thông thường và “tiền gửi tiết kiệm siêu linh hoạt” ở cả hai loại tiền gửi VND và USD.
Theo đó, tiền gửi thông thường giảm nhẹ từ 0,14%-0,2%/năm. Lãi suất tiền gửi VND kỳ hạn 1 tháng chỉ còn 10,95%/năm; kỳ hạn 3, 6, 12, 13 tháng đều giảm từ 11,5% còn 11,05%/năm; 18, 24 và 36 tháng còn 10,86%/năm. Với lãi suất USD, kỳ hạn 1 và 2 tháng còn 3,75%/năm; 3 tháng 4,15%; 6 tháng 4,35%; 9 tháng 4,65%; 12, 24 và 36 tháng 4,75%/năm.
Trong khi đó, Ngân hàng Việt Á tăng lãi suất tiết kiệm vàng từ 0,1-0,2%/năm với mức cao nhất đến 1,8%/năm. Kỳ hạn 1 tháng tăng từ 1,2% lên 1,3%/năm; 3 tháng tăng từ 1,3% lên 1,5%/năm; kỳ hạn 6 tháng tăng từ 1,3% lên 1,5%/năm.
Khách hàng gửi từ 30-70 lượng vàng sẽ được cộng lãi suất thưởng 0,2%/năm. Khách hàng gửi từ 70 lượng vàng trở lên sẽ được cộng lãi suất thưởng 0,3%/năm. Ngân hàng Quân đội cũng tăng lãi suất tiền gửi USD từ 0,2%-0,35%/năm tại tất cả kỳ hạn.
Theo đó, tiền gửi tiết kiệm tại kỳ hạn 2 tháng có mức lãi suất tăng cao là 4%/năm và đạt mức tăng 0,35%/năm. Kỳ hạn có mức lãi suất cao nhất là 24 tháng với 4,7%/năm.
Một số ý kiến của ngân hàng nhỏ cho rằng những nội dung được sửa đổi trong thông tư 13 chỉ tốt hơn đối với các ngân hàng lớn, còn đối với các ngân hàng nhỏ thì tác động không đáng kể.
Do tiền gửi thanh toán từ các tổ chức kinh tế tại những ngân hàng nhỏ hiện nay rất ít, đặc biệt là tiền gửi của Kho bạc Nhà nước tại các ngân hàng nhỏ hầu như không có, các khoản trên chỉ tập trung tại những ngân hàng quốc doanh và cổ phần lớn.
Chỉ có điều ngân hàng nhỏ hưởng lợi là sẽ không còn bị hạn chế bởi tỉ lệ 20% vốn vay trên thị trường liên ngân hàng để cấp tín dụng khi Ngân hàng Nhà nước cho phép sử dụng vốn vay các tổ chức tín dụng khác với kỳ hạn từ 3 tháng trở lên để cấp tín dụng.
Hiện nhiều ngân hàng lớn như ACB, Eximbank... cho biết đã đáp ứng các yêu cầu của thông tư 13. Tuy nhiên, cũng có nhiều ngân hàng đang gấp rút để chạy đua đạt tỉ lệ huy động và cho vay 80% bằng việc hút vốn huy động cả tiền đồng, USD lẫn vàng.
Một lãnh đạo của ABBank cho biết nếu tính cộng vốn bảo lãnh cho doanh nghiệp hiện tại của ABBank vào thì ngân hàng đã đạt được tỉ lệ cho vay không quá 80%/vốn huy động.
HDBank cũng cho biết đã áp dụng các tiêu chuẩn về việc trích lập dự phòng chung 0,75% trên tổng dư nợ, thực hiện tỉ lệ cấp tín dụng chỉ khoảng 60% so với nguồn vốn huy động, đảm bảo nguồn vốn tối thiểu theo quy định để thực hiện dự trữ bắt buộc.
Có thể thấy những điểm mấu chốt của thông tư 13 là một trong những đóng góp tích cực trong việc đảm bảo cho các ngân hàng hoạt động an toàn. Tuy nhiên, điều không phủ nhận là các ngân hàng nhỏ sẽ gặp khó khăn nhiều hơn các ngân hàng lớn để đáp ứng những tỉ lệ an toàn mới.
Điều này lý giải vì sao có ngân hàng giảm lãi suất nhưng cũng có ngân hàng lại tăng lãi suất để hút vốn nhanh, đáp ứng các chỉ tiêu an toàn vốn.
* Trong văn bản gửi các thành viên vừa phát đi, bên cạnh yêu cầu các ngân hàng đồng thuận giảm lãi suất VND từ 11,2%/năm xuống 11%/năm, Hiệp hội Ngân hàng cũng yêu cầu các ngân hàng giảm lãi suất USD thấp hơn so với mức 5-5,5%/năm như hiện nay nhằm tạo chênh lệch hợp lý với lãi suất VND.
Hiệp hội yêu cầu các ngân hàng trên cơ sở tính toán, cân đối nguồn vốn ngân hàng cũng nên giảm lãi suất cho vay với các đối tượng ưu tiên như nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp vừa và nhỏ xuống mức 12%/năm như chỉ đạo của Chính phủ.
Về lãi suất không kỳ hạn, hiệp hội yêu cầu các ngân hàng giảm lãi suất không kỳ hạn và các kỳ hạn dưới 3 tháng xuống mức thấp hơn nhằm tạo đường cong lãi suất. Hiện nhiều ngân hàng huy động vốn không kỳ hạn với lãi suất cao, lên đến 5-6%/năm.
(Nguồn : Báo Tuổi Trẻ)

SỬA ĐỔI THÔNG TƯ 13: MỘT TỪ NHỎ, GIÁ TRỊ LỚN ?



Về hình thức, văn bản sửa đổi và bổ sung Thông tư 13 chỉ vẻn vẹn 3 trang A4, không nhiều thay đổi. Nhưng chỉ cần một từ trong đó có thể mang lại giá trị lớn.


Có thể kỳ vọng những điều chỉnh mới của Ngân hàng Nhà nước là một hướng hỗ trợ đối với các tổ chức tín dụng về nguồn vốn để cùng với các giải pháp hỗ trợ khác hướng tới định hướng hạ dần lãi suất.

Cuối cùng, kết quả sửa đổi và bổ sung Thông tư 13 đã được Ngân hàng Nhà nước “chốt” lại và công bố vào cuối chiều 27/9. Đó là Thông tư 19

Về cơ bản, việc sửa đổi, bổ sung chỉ tập trung ở ba “vùng” nội dung. Nếu nhìn lại những kiến nghị dài 9 trang từ ý kiến của các thành viên thị trường, qua đầu mối Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA) tập hợp trước đó, có thể là những tiếng thở dài chưa thỏa mãn.

Dễ hiểu khi suốt thời gian qua, một nội dung được nhiều ý kiến tập trung nhấn mạnh và phân tích đã không được đáp ứng. Đó là việc xét lại hệ số rủi ro (250%) đối với các khoản cho vay đầu tư, kinh doanh bất động sản và chứng khoán, nhưng không có một từ nào trong Thông tư 19 đề cập đến. Hay kiến nghị đưa tiền gửi không kỳ hạn của tổ chức kinh tế vào vốn huy động để cho vay cũng chỉ được xét ở mức 25%. Rồi kiến nghị có thể giãn lộ trình thực hiện nâng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu từ 8% lên 9% cũng không được chấp thuận…

Thế nhưng, trong ba “vùng” nội dung đó, những quy định sửa đổi, bổ sung trong Thông tư 19 đã mang lại giá trị lớn cho các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng. Giá trị này, trước hết, được nhìn nhận ở góc độ tiếp cận văn bản pháp luật, hiểu theo nghĩa các ngân hàng, tổ chức tín dụng được phép làm “những gì pháp luật không cấm”.

Hay nói cách khác, đó là một giá trị ngoại suy mà không thể hiện trực tiếp ở các câu chữ, hay quy định cụ thể, chi tiết theo những điều chỉnh, bổ sung mới cho Thông tư 13.

Nội dung đầu tiên của Thông tư 19 đề cập đến việc sửa đổi quy định trong Khoản 2 Điều 1. So với Thông tư 13, ở đây cũng vẫn là 5 “gạch đầu dòng” các tỷ lệ bảo đảm an toàn quy định tại Thông tư. Thế nhưng đã có một chi tiết khác biệt.

Cụ thể, Điểm đ, của Khoản 2 Điều 1 đã có điều chỉnh là: “Tỷ lệ cấp tín dụng từ nguồn vốn huy động” thay cho “Tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động” trong quy định của Thông tư 13. Mấu chốt giá trị nằm ở đây.

Một cách hiểu ngoại suy khi tiếp cận Thông tư 19, chỉ một điều chỉnh “nhỏ” ở trên, giữa “từ” và “so với” đã thay đổi bản chất của quy định và ràng buộc đối với nguồn vốn mà các tổ chức tín dụng được phép dùng để cho vay. Tức là, quy định về tỷ lệ cấp tín dụng là đối với nguồn vốn “từ nguồn vốn huy động”. Ở đây có thể hiểu là nó độc lập với nguồn vốn tự có của các nhà băng.

Nói một cách hình ảnh, thay vì quy định an toàn khi tham gia giao thông, anh phải trang bị bảo hiểm cho tất cả các bộ phận trên cơ thể; nhưng theo điều chỉnh mới, anh chỉ phải đội mũ bảo hiểm để bảo vệ bộ phận quan trọng nhất và nhiều rủi ro nhất; các bộ phận khác có thể “thoải mái” hơn.

Dĩ nhiên, cách hiểu ngoại suy trên đối với quy định đó trong Thông tư 19 có thể cần sự giải thích cụ thể hơn từ Ngân hàng Nhà nước. Nhưng, một suy tính thông thường, khi chỉ quy định “từ nguồn vốn huy động”, mặc nhiên nguồn vốn tự có được loại trừ. Các ngân hàng theo đó có điều kiện thuận lợi hơn nhiều khi sử dụng nguồn vốn tự có và nguồn vốn này không chịu ràng buộc bởi tỷ lệ cấp tín dụng theo quy định các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong Thông tư.

Đi cùng với điều chỉnh trên, Mục 5 của Thông tư 13 cũng được thay đổi theo. Cụ thể, “Tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động” (Thông tư 13) được thay bằng “Tỷ lệ cấp tín dụng từ nguồn vốn huy động” (Thông tư 19). Rõ ràng, đã có thay đổi lớn. Và theo đó, tỷ lệ giới hạn 80% đối với ngân hàng và 85% đối với các tổ chức tín dụng phi ngân hàng về mặt con số vẫn giữ nguyên như Thông tư 13, nhưng về bản chất đã thay đổi, nó không bao hàm nguồn vốn tự có.

Tất nhiên, trong hoạt động, tỷ lệ đó cao hay thấp đi cùng với hiệu quả sử dụng vốn của các nhà băng, cũng như đi cùng với các mức độ rủi ro. Nhưng điều chỉnh trên của Ngân hàng Nhà nước có thể xem là một hướng cởi mở hơn trước đó.

Ngoài điều chỉnh trên, Thông tư 19 cũng đã tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng có thể sử dụng thêm nguồn vốn từ tiền gửi của Kho bạc Nhà nước, từ tiền vay của các tổ chức tín dụng khác có kỳ hạn từ 3 tháng trở lên, 25% tiền gửi không kỳ hạn của tổ chức kinh tế để cho vay. Trong đó, 25% tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế, không trọn vẹn 100% như kiến nghị từ các thành viên, nhưng có còn hơn không.

Xét rộng hơn, có thể kỳ vọng những điều chỉnh trên của Ngân hàng Nhà nước là một hướng hỗ trợ đối với các tổ chức tín dụng về nguồn vốn, và liên quan dĩ nhiên là giảm thiểu chi phí, để cùng với các giải pháp hỗ trợ khác hướng tới định hướng hạ dần lãi suất trong thời gian tới